NEW YORK (Reuters Health) – Những bệnh nhân mắc bệnh tăng nhãn áp nặng tiến hành phẫu thuật cắt bè củng giác mạc (trabeculectomy) có nhãn áp (IOP) thấp hơn, và kết quả an toàn và chất lượng cuộc sống tương tự như những người dùng thuốc, theo một thử nghiệm ngẫu nhiên từ Vương quốc Anh.
Tiến sĩ Anthony J. King của Bệnh viện Đại học Nottingham cho Reuters Health biết qua email: “Không có trường hợp mất thị lực nghiêm trọng liên quan đến phẫu thuật, chất lượng cuộc sống tương đương giữa dùng thuốc và can thiệp phẫu thuật, và không có tiến triển quan trọng giảm mỡ bụng trong bệnh tăng nhãn áp trong suốt thời gian nghiên cứu ở cả hai nhóm”.
Mặc dù “bệnh tăng nhãn áp tiến triển nặng lúc mới xuất hiện là yếu tố nguy cơ lớn nhất dẫn đến mù lòa suốt đời, các bác sĩ lâm sàng không muốn tiến hành phẫu thuật chính vì lo ngại về các biến chứng phẫu thuật và thiếu bằng chứng”, Tiến sĩ King và các đồng nghiệp của ông viết trên The BMJ. “Nghiên cứu này cung cấp bằng chứng trực tiếp đầu tiên về kết quả của các biện pháp can thiệp đối với bệnh nhân mắc bệnh tăng nhãn áp nặng.”
Trong hơn ba năm, nhóm nghiên cứu đã thu nhận 453 bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh tăng nhãn áp góc mở nặng trong thử nghiệm TAGS thực tế, diễn ra tại 27 bệnh viện ở Vương quốc Anh. Nhóm nghiên cứu đã chỉ định ngẫu nhiên 227 bệnh nhân để được phẫu thuật cắt u mỡ tăng cường mitomycin C và 226 bệnh nhân được chăm sóc y tế nâng cao bằng thuốc giảm nhãn áp.
Tuổi trung bình của bệnh nhân là 68 tuổi, và 67% là nam giới. Cả hai nhóm điều trị đều có điểm trung bình của Bảng câu hỏi chức năng thị giác 25 (VFQ-25) ban đầu là 87,1. Những bệnh nhân không thể phẫu thuật cắt rạch hoặc có nguy cơ cao bị thất bại phẫu thuật cắt bè củng giác mạc đã được loại trừ.
Tại thời điểm 24 tháng, điểm VFQ-25 trung bình là 85,4 ở nhóm phẫu thuật cắt bè củng giác mạc và 84,5 ở nhóm dùng thuốc giảm nhãn áp (P = 0,38).
IOP trung bình cho những bệnh nhân phẫu thuật cắt bè củng giác mạc là 12,4 mmHg so với 15,1 mmHg cho những người dùng thuốc giảm nhãn áp (P <0,001).
Tại thời điểm 24 tháng, cả hai nhóm đều có kết quả tương tự nhau trong bảng câu hỏi tình trạng sức khỏe 5 chiều năm cấp độ của Nhóm EuroQol (EQ-5D-5L), Chỉ số Tăng nhãn áp (GUI) và Chỉ số Sức khỏe-mark 3 (HUI-3) ).
Tám mươi tám bệnh nhân trong nhóm phẫu thuật cắt bè củng giác mạc (39%) gặp phải các tác dụng phụ, so với 100 (44%) trong nhóm dùng thuốc (P = 0,37); 12 bệnh nhân phẫu thuật cắt bè củng giác mạc và 8 bệnh nhân dùng thuốc có tác dụng phụ nghiêm trọng (P = 0,38).
Một người tham gia trong mỗi nhóm bị viêm nội nhãn và 3 người trong nhóm phẫu thuật cắt bè củng giác mạc mất hơn 10 chữ cái trong thị lực logMAR do bệnh tăng nhãn áp tiến triển hoặc bệnh võng mạc huyết thanh trung tâm.
Các nhà nghiên cứu lưu ý: “Các hạn chế bao gồm thực tế là các phương pháp điều trị và các biện pháp kết quả được báo cáo của bệnh nhân không thể bị che giấu khỏi những người tham gia hoặc bác sĩ lâm sàng”, các nhà nghiên cứu lưu ý, cũng như thực tế là hầu hết những người tham gia là người da trắng, điều này có thể hạn chế tính tổng quát của các phát hiện.
Tiến sĩ Malik Y. Kahook, giáo sư nhãn khoa và là trưởng khoa điều trị bệnh tăng nhãn áp tại Đại học Y khoa Colorado ở Aurora, không ngạc nhiên trước những phát hiện này.
Ông nói với Reuters Health qua email: “Người ta đã biết trong nhiều năm rằng phẫu thuật cắt bè củng giác mạc là một phương pháp hiệu quả để giảm IOP và giảm bớt gánh nặng của nhỏ thuốc giảm nhãn áp có thể nâng cao chất lượng cuộc sống. “Sau khi đọc bài báo này, các bác sĩ phẫu thuật có thể có nhiều khả năng lựa chọn phẫu thuật trước, dưới hình thức cắt trabeculectomy, cho những bệnh nhân thích hợp với bệnh tăng nhãn áp tiến triển nặng.”
“Điểm mạnh của nghiên cứu bao gồm nhiều địa điểm và bác sĩ phẫu thuật và phương pháp tiếp cận ‘thực dụng’ bắt chước các thực hành lâm sàng trong thế giới thực”, Tiến sĩ Kahook, người không tham gia nghiên cứu, nói thêm. “Điểm yếu bao gồm không có khả năng che giấu bệnh nhân với các biện pháp can thiệp và thực tế là một số lượng đáng kể trong mỗi nhóm được điều trị liệu pháp thay thế trong quá trình theo dõi.”
Tiến sĩ Janna Lambson, bác sĩ đo thị lực tại Trường Y thuộc Đại học Bắc Carolina ở Chapel Hill, cho biết: “Sợ mù có thể là lý do phổ biến khiến bệnh nhân từ chối phẫu thuật mắt.
“Nghiên cứu này có thể là một cách tốt để thông báo với bệnh nhân rằng phẫu thuật là một lựa chọn hiệu quả và tương đối an toàn để kiểm soát bệnh tăng nhãn áp tiến triển nặng của họ”, cô nói với Reuters Health qua email.
Tiến sĩ Lambson, người cũng không tham gia vào nghiên cứu, nói thêm, “Một điểm yếu là nghiên cứu không đề cập đến các loại thuốc chính xác được sử dụng, vì vậy không rõ liệu các bệnh nhân trong nhóm điều trị tại chỗ có được điều trị y tế tối đa hay không. https://phongkhamjkvietnam.vn/giam-mo-bung/”
Nhóm nghiên cứu đã nhận được tài trợ để theo dõi những người tham gia trong suốt 5 năm. “Điểm yếu chính của nghiên cứu là thời gian theo dõi ngắn,” Tiến sĩ King giải thích. “Bệnh tăng nhãn áp là một tình trạng kéo dài suốt đời, tiến triển chậm và việc theo dõi lâu hơn sẽ cung cấp thêm bằng chứng về sự khác biệt về hiệu quả và độ an toàn của các biện pháp can thiệp.” https://phongkhamjkvietnam.vn/giam-mo-mau/
Nguồn: Reuters Health